Trang chủ ĐHQGHN |   Trang nhất
 
Ngày 29 Tháng 3 Năm 2024    Số người truy cập: 960591
Theo dòng lịch sử 100 năm
- Lịch sử Đại học Quốc gia Hà Nội
- Thành tựu 100 năm
Tin tức & Sự kiện
Các hoạt động kỷ niệm 100 năm
- Kỷ niệm 50 năm Trường Đại học Khoa học tự nhiên
Con người & Sự kiện
- 100 chân dung - Một Thế kỷ Đại học Quốc gia Hà Nội
- Chân dung Nhà giáo
- Những gương mặt trẻ tiêu biểu
Tư liệu
Diễn đàn Hà Nội về GDĐH Thế kỷ XXI
Hướng dẫn đăng ký cựu sinh viên, cán bộ và đăng nhập diễn đàn
Tâm sự về ngôi trường 100 tuổi
 
GS. Đặng Như Tại: "Tôi chỉ là một cán bộ giảng dạy bình thường, không có gì đặc biệt"

Vào một đêm tháng 5.1951, có ba người đàn ông khăn gói gọn gàng, theo chị giao liên lặng lẽ vượt qua các làng tề vùng Thái Bình, đi về hướng bờ sông Hồng. Trong ba người đó có một trang niên thiếu, vóc dáng mảnh mai, đúng kiểu học trò. Chàng đeo ba lô nặng, cố bám theo hai người lớn tuổi, nhưng thỉnh thoảng vẫn ngoái lại nhìn bóng cây đa làng mình in trên nền trời đêm. Phía ấy, chàng có người mẹ tảo tần nuôi chàng ăn học gần hết cấp hai và chắc là đang lau nước mắt thương chàng sau buổi tiễn con đi. Phía ấy, chàng còn có hai người anh đang hoạt động du kích hết sức quả cảm trong lòng địch. Chàng cũng muốn cùng các anh tham gia du kích, hoặc chờ đủ tuổi vào bộ đội. Nhưng vì thương em trai gầy yếu và cũng thấy em mình học tốt, hai người anh tìm mọi cách cho chàng học tiếp. Con đường học hành khi ấy đã bị chặn mọi lối. Chỉ còn cách duy nhất là theo đường giao liên vào vùng tự do Thanh Hoá. Thế là sau ba lần lên đường không thành vì giặc càn quét, đêm nay, chàng đã cùng hai cán bộ tỉnh qua được các đồn bốt và ca nô tuần tiễu của địch vượt sông Hồng sang Nam Định.

 Đã bỏ xa rồi đồn Thẫm, bốt Ngăm, đồn An Lão, sông Hồng, sông Đáy, quê hương chàng chìm dần trong bóng đêm. Đường dây giao liên bí mật kéo dài cuộc hành trình của chàng tới bốn ngày, bốn đêm ròng rã. Chàng mồ côi cha từ nhỏ, chỉ còn lại mẹ. Thương mẹ, thương anh chị làm lụng vất vả, chàng hiểu rằng mình phải cố gắng học hành, phải học thêm cả cái phần thất học của những người anh đang cầm súng tham gia kháng chiến. Chàng nhận phần trách nhiệm không phải của người kháng chiến hiện tại, mà của người kiến quốc sau này.

 Không ai đoán được rằng chàng thư sinh đêm đó sau này đã trở thành một trong những giáo sư đầu ngành của đại học Việt Nam: GS.NGND Đặng Như Tại.

 Con đường học tập, lao động và cống hiến của GS. Đặng Như Tại là con đường của những thử thách về ý chí và nghị lực. Ngồi với các nghiên cứu sinh của mình, có lần ông vui chuyện, ôn lại những kỷ niệm của cái thời "anh khoá hàn vi": "Tôi đi tưởng đến kiệt sức thì vào được đến vùng Hậu Hiền, Thanh Hoá. Tôi có cả một ba lô tiền, nhưng không phải là người giàu có gì. Chẳng qua là ở vùng tạm chiếm Thái Bình, loại tiền tài chính đó rất khó tiêu, bà con anh em bèn dồn góp lại cho mình. Đeo ba lô đó vào Thanh thì tiền tài chính của ta lại tiêu được dễ dàng. Tuy vậy cũng chỉ ba tháng là hết veo. Thời gian đầu học ở trường quốc lập cấp II Nga Sơn (Thanh Hoá), tôi phải dạy thêm cho con bác chủ nhà mới có cơm ăn, bây giờ ta gọi là hành nghề gia sư đấy. Có lần thấy tôi định về thăm nhà, ông chủ nhà lo lắng hỏi: "Đường xa, giặc càn quét liên miên, anh nhớ nhà cũng cố chịu, chứ về làm gì?". Tôi phải thú thật với ông là ngoài chuyện nhớ mẹ, tôi còn muốn về xin thêm bộ quần áo. Ông chủ nhà nghe vậy thương quá, bèn may luôn cho tôi bộ quần áo nâu, giống như cho các con ông vậy. Bộ quần áo nâu ấy đã theo tôi suốt cả thời học sinh, sinh viên sau đó".

 Nhờ có kết quả học tập tốt ở cấp II, ông được chuyển thẳng lên học ở trường cấp III Hồ Tùng Mậu, Nam Định, rồi sau đó chuyển về học ở trường cấp III Nguyễn Thượng Hiền, Liên khu III.

 Giải phóng Hà Nội tháng 10.1954 cũng là lúc cậu tú Đặng Như Tại tốt nghiệp phổ thông kháng chiến, hào hứng về kinh đô ứng thí vào đại học. Vốn là người ham học, vượt lên mọi thiếu thốn, khó khăn, ông thi đỗ vào Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Ba năm học đại học, bạn bè trong lớp nể ông - chàng sinh viên duy nhất trong trường vẫn giữ nguyên bộ quần áo nâu truyền thống của nông thôn Việt Nam. Không phải ông lập dị mà phần vì không muốn làm phiền người mẹ nghèo, phần vì ông không coi chuyện trang phục làm trọng. Quan trọng, theo ông nghĩ: phải học tập cho tốt để khi ra trường có thể công tác tốt được. Ông vừa học vừa dạy bổ túc văn hoá. Những người thợ của nhà in Lê Văn Tân phố Hàng Bông năm xưa nay vẫn lưu giữ trong ký ức hình ảnh "thầy Tại giản dị" nhưng giảng dạy thật tận tình và dễ hiểu. Thầy dạy không công, nay ta gọi nôm na là "miễn phí", đều đặn một tuần 2 buổi: tối thứ 2 và tối thứ 5. Thầy phải cuốc bộ mấy cây số liền, từ khu Đông Dương học xá lên Hàng Bông cho kịp giờ lên lớp.

Năng lực và tư chất của chàng sinh viên năm cuối Đặng Như Tại sớm lọt vào tầm ngắm của lãnh đạo nhà trường trong mục tiêu xây dựng đội ngũ. Ông là cử nhân Hoá học duy nhất tốt nghiệp năm 1957 được giữ lại, bổ sung vào đội ngũ cán bộ giảng dạy của Khoa Hoá học Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội mới được thành lập trước đó ít lâu.

 Chỉ sau một tuần chuyển chỗ ở, chưa kịp định thần trước bước ngoặt cuộc đời, ông đã phải lên lớp hướng dẫn thực tập cho sinh viên khoá 1. Rồi 1 tuần sau, theo sự điều động của GS. Nguyễn Hoán, Chủ nhiệm Khoa Hoá học, ông phải chính thức lên lớp dạy môn Hoá học hữu cơ cho sinh viên khoá 2 Khoa Sinh vật. Thời gian chuẩn bị lên bục giảng quá gấp gáp, nhiệm vụ được giao quá nặng nề, nhưng để đáp lại sự tin cậy của các thầy cô, đồng nghiệp cùng lãnh đạo nhà trường, ông không còn sự lựa chọn, nấn ná nào khác ngoài sự cố gắng tới mức cao nhất. Những đóng góp của ông trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học đã được đồng nghiệp và cấp trên ghi nhận. Ông cảm thấy hoàn toàn yên tâm vì mình không hề làm mai danh tên tuổi của lớp mình, trường mình - Trường Trung học kháng chiến Nguyễn Thượng Hiền.

 Năm 1959, ông được cử đi thực tập sinh tại Trường Đại học Tổng hợp Lômônôxốp, chương trình 2 năm để hoàn chỉnh giáo trình đại học hệ 4 năm cho Bộ môn. Để tiết kiệm chi phí đào tạo, lãnh đạo Đại sứ quán Việt Nam tại Liên Xô đã thống nhất với đánh giá của giáo sư hướng dẫn ông, quyết định cho ông tiếp tục viết luận án phó tiến sĩ. Mấy năm sau, ông đã trở thành một trong những phó tiến sĩ (nay gọi là tiến sĩ) Hoá học đầu tiên của Việt Nam tốt nghiệp từ một trường đại học danh tiếng - Đại học Tổng hợp Lômônôxốp.

 Năm 1965, một hôm người anh trai yêu quý của ông, đang công tác tại Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao đến gặp ông báo tin mình tái ngũ. Ông ngạc nhiên hỏi lại: "Anh mới được bồi dưỡng về pháp luật, đang công tác tại một cơ quan có nhiều người khoẻ mạnh, trai trẻ, sao anh lại tái ngũ?". Người anh trả lời, giọng hơi buồn: "Anh em người ta phần lớn có vợ con ở Hà Nội, liền kề. Mình thì vợ con ở quê xa. Vậy thì ở Hà Nội hay đi chiến trường, đằng nào cũng là xa vợ con cả. Vả lại, thấy anh em do dự, mình không gương mẫu sao được". Ông nghe anh nói mà nghẹn lòng thương anh. Nếu vào địa vị như anh mình, có lẽ ông cũng không thể quyết định khác được. Tổ quốc đang cần những cựu binh dạn dày kinh nghiệm từ cuộc kháng chiến cũ cho chiến trường chống Mỹ đang vào giai đoạn ác liệt. Hai anh em ông chia tay nhau mà không linh cảm được đó là lần gặp cuối cùng. 2 năm sau, năm 1967, ông đau đớn nghe tin anh hy sinh trên chiến trường Đường 9. Vậy là lần lượt hai người anh ông đã ngã xuống. Ông là người đàn ông duy nhất còn lại của gia đình. Và điều duy nhất có ý nghĩa với ông lúc này là giảng dạy và nghiên cứu, cống hiến nhiều nhất cho đất nước để xứng dáng với những đóng góp máu xương của 2 người anh. Làm việc một cách hiệu quả, theo ông, cũng là một hình thức sống bù cuộc sống của những người đã khuất.

 Chiến tranh bằng không quân của giặc Mỹ lan rộng khắp miền Bắc. Vợ chồng ông, 2 nhà hoá học, lại tất tả thu vén đồ đạc, gói ghém đồ thí nghiệm, cùng đồng nghiệp và sinh viên sơ tán lên Bắc Thái. Những năm sơ tán đó thực sự là một thử thách lớn cho đào tạo đại học, đặc biệt là đối với đào tạo và nghiên cứu ngành hoá học. Có nhiều đề tài nghiên cứu của ông phải trả giá bằng hàng chục cây số đường bộ, tìm những nơi có điện cho các thí nghiệm hoá học. Nhiều chương giáo trình, nhiều bài báo khoa học của ông đã ra đời dưới ánh đèn dầu leo lét đêm thâu. Đây cũng chính là thời kỳ ông tham gia đào tạo nhiều sĩ quan binh chủng hoá học và thực hiện các đề tài nghiên cứu phục vụ quốc phòng.

 Kết thúc chiến tranh, đất nước bước vào thời kỳ hoà bình, xây dựng cũng là lúc các ngành khoa học tự nhiên trong đó có ngành Hoá học đứng trước những triển vọng mới. Ông đã có nhiều chuyến công tác và trao đổi khoa học nước ngoài. Ông sang Nga, trở lại trường cũ. Trong nhiều chương trình trao đổi khoa học, ông được Bộ Giáo dục cho phép tự chọn nước đến. Tuy vậy, ông chủ yếu vẫn chọn nước Nga, nơi có trường xưa, bạn cũ. Theo ông, nước Nga có thể là thành trì của hoà bình một thời, nhưng mãi mãi vẫn là một trong những thành trì của nghiên cứu khoa học cơ bản. Ông yêu nước Nga, đất nước đã giúp ông trưởng thành hơn, đất nước của những con người tài năng, nhân hậu.

 Năm 1980, ông được phong học hàm Phó giáo sư. Năm 1987, ông bảo vệ thành công luận án tiến sĩ khoa học. Năm 1991, ông phong học hàm Giáo sư. Ông đã có 121 công trình khoa học được công bố trên các tạp chí khoa học trong và ngoài nước. Ông hướng dẫn thành công 10 luận án tiến sĩ, 8 luận văn thạc sĩ, cố vấn chuyên môn cho 3 tiến sĩ khoa học, hướng dẫn hàng trăm khoá luận tốt nghiệp đại học... Vì say mê với giảng dạy, nghiên cứu, có lúc ông bị mang tiếng là người vô tình. Cố GS. Nguyễn Đình Tứ khi còn làm Bộ trưởng, đã có lần giận ông vì ông đã lẩn tránh một cương vị lãnh đạo mà Bộ đang có ý định giao phó. Ông chỉ được cố Bộ trưởng cảm thông, "tha thứ" khi nói thật động cơ từ chối là: "muốn dành nhiều thời gian hơn cho hướng nghiên cứu mà mình đang theo đuổi". Tuy vậy, từ năm 1978 đến 1990, ông vẫn phải đảm nhiệm cương vị Chủ nhiệm khoa Hoá học. 12 năm giữ trọng trách đó, ông đã có điều kiện thuận lợi hơn trong việc giúp đỡ kịp thời nhiều sinh viên, đồng nghiệp trẻ trưởng thành và phát huy tài năng, trí tuệ để trở thành những cán bộ ưu tú của ngành hoá học; trong số đó phải kể đến GS.TSKH Nguyễn Minh Thảo, PGS.TS Trần Thạch Văn, PGS.TS Nguyễn Đình Thành,... Đối với thâm niên quản lý cấp khoa, 12 năm chưa phải là con số kỷ lục. Nhiều nhà giáo phải kéo cỗ xe ấy 15 - 20 năm. Nhưng điều đáng lưu ý là thời điểm lịch sử của các nhiệm kỳ. 12 năm làm Chủ nhiệm khoa của ông là 12 năm nằm gọn trong thời kỳ gian khó của đất nước. 1978 - 1990 là khoảng thời gian đất nước vừa nguội lửa chiến tranh, tiêu điều trong chế độ tem - phiếu bao cấp, kéo dài cho tới khi tất cả phải buộc lòng... đổi mới. Điều này thể hiện một phần trong lời tâm sự của ông, khi ông nói về trách nhiệm của một cán bộ quản lý thời ấy: "Anh tính coi, cán bộ mình trong khoa đều nghèo khó cả, nhiều người lương thấp. Tôi cũng nhiều lần từ chối lên lương sớm, nhường tiêu chuẩn đó cho những người lương thấp, hoàn cảnh khó khăn. Có lần đươc mời đi trao đổi khoa học ở một trường đại học của Pháp, tôi đã nhường suất đi cho một thầy giáo khác và cũng phải thuyết phục rất khó khăn mới được phía bạn chấp nhận".

 GS. Đặng Như Tại là người hết sức cẩn trọng, khiêm nhường. Phong cách nói chuyện của ông bộc lộ rõ tư chất của một nhà khoa học: vừa thận trọng, chặt chẽ, vừa nhiệt tình, cởi mở song vẫn có giới hạn của tính tổ chức2. Hoá ra căn nhà mà chúng tôi được ông tiếp - nhà 10, B15, khu tập thể Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội tại số 51 Cảm Hội gồm một phần là món "lộc nước" mà vợ chồng ông được hưởng một cách muộn màng. Bao nhiêu năm vợ chồng ông vẫn lặng lẽ sống trong căn phòng chật chội số 20 phố Phan Huy Chú. Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt khi biết hai vợ chồng nhà khoa học, 2 Nhà giáo nhân dân và Nhà giáo ưu tú ấy phải ăn ở chật chội, không có cả chỗ ngồi tiếp khách, đã trực tiếp chỉ thị các cơ quan hữu trách phân phối thêm cho hai người một căn hộ mới.

 Khi biết chúng tôi đến thăm ông với mục đích viết bài cho kỷ niệm 100 năm Đại học Đông Dương, GS. Đặng Như Tại tỏ ra ngần ngại. Ông đưa ra cho chúng tôi cuốn "Giáo sư Việt Nam" và nghĩ rằng trang lý lịch khoa học của ông được in trong đó là đủ cho yêu cầu của chúng tôi. Chúng tôi thận trọng lần giở từng trang sổ vàng với cảm xúc của người đọc bia Văn Miếu. Tìm tên của GS. Đặng Như Tại và GS. Ngô Thị Thuận rất dễ, vì cả hai đều ở tập chữ T, cách nhau có vài trang. Chúng tôi cứ băn khoăn tự hỏi, ở đất nước này có đôi vợ chồng nào mà cuộc đời có sự song hành đẹp đẽ thế này không: cả hai đều là Nhà giáo nhân dân và Nhà giáo ưu tú, cả hai đều là giáo sư, tiến sĩ khoa học ngành Hoá học?

 Mấy vị khách ra về, chúng tôi bắt đầu phỏng vấn. Buồn một nỗi, trước nhiều câu hỏi của chúng tôi, GS. Đặng Như Tại cứ trả lời miễn cưỡng: "Thật ra, tôi cũng chẳng có gì đặc biệt". Nghe vậy, chúng tôi hiểu ngay rằng mình còn phải đi nhiều nơi khác nữa, hỏi chuyện nhiều người khác nữa mới có thể dựng được chân dung vị giáo sư đáng kính mà rất đỗi khiêm nhường này./.

Phạm Thành Hưng [100 Years-VietNam National University,HaNoi]
Các bài liên quan
» Thầy tôi - tiểu khúc thứ ba, những điều chưa nói
» GS. Phan Tống Sơn: "Cuối con đường tôi đi, nơi đó là khoa học..."
» GS. Võ Quý - nhà giáo, nhà điểu học, người bạn của thiên nhiên
» GS.TSKH Trương Đông San - người tâm huyết với sự nghiệp giáo dục và đào tạo ngoại ngữ
» GS.NGƯT Trần Quốc Vượng: Thầy tôi, cây đại thụ của nền sử học việt nam
» GS. Hoàng Tụy, người khai sinh lý thuyết Tối ưu Toàn cục
» Victor Tardieu - người sáng lập Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
» GS. Hà Văn Tấn, vị giáo sư khảo cổ học và hành trình theo dấu văn hoá
» GS. Đào Văn Tập - người đặt viên gạch đầu tiên cho nền khoa học kinh tế ở Việt Nam
» GS. Đào Trọng Thi - nhà toán học tài năng, nhà quản lý tâm huyết
» GS. Phan Trường Thị - trên mười năm trèo đèo, lội suối thực hiện một ý tưởng… phác thảo
» GS. Lê Văn Thiêm, nhà khoa học xuất sắc, niềm tự hào của nền Toán học Việt Nam
» GS. Lê Xuân Tùng, tấm gương sáng về ý chí tự lực, tự cường
» PGS. Nguyễn Kim Thản - chân dung một người khai phá
» GS. Phạm Ngọc Thao - nhà toán học không ngừng học
 Tin tức qua ảnh
 Tiêu điểm
 Các liên kết
 Thư viện ảnh

Copyright 2004-2024 Đại học Quốc gia Hà Nội
Thông tin toà soạn
Địa chỉ : 144 - Đường Xuân Thủy - Cầu Giấy - Hà Nội.    Email : bantin@vnu.edu.vn