Trang chủ ĐHQGHN |   Trang nhất
 
Ngày 28 Tháng 3 Năm 2024    Số người truy cập: 959887
Theo dòng lịch sử 100 năm
- Lịch sử Đại học Quốc gia Hà Nội
- Thành tựu 100 năm
Tin tức & Sự kiện
Các hoạt động kỷ niệm 100 năm
- Kỷ niệm 50 năm Trường Đại học Khoa học tự nhiên
Con người & Sự kiện
- 100 chân dung - Một Thế kỷ Đại học Quốc gia Hà Nội
- Chân dung Nhà giáo
- Những gương mặt trẻ tiêu biểu
Tư liệu
Diễn đàn Hà Nội về GDĐH Thế kỷ XXI
Hướng dẫn đăng ký cựu sinh viên, cán bộ và đăng nhập diễn đàn
Tâm sự về ngôi trường 100 tuổi
 
Giáo sư Đỗ Đức Hiểu
GS.Đỗ Đức Hiểu

Xế chiều ngày 27/2/2003, GS.Đỗ Đức Hiểu trút hơi thở cuối. Từ nay “chân trời vắng một cánh bay”, văn đàn Việt Nam thiểu hẳn một vóc dáng đại bàng trên con đường đổi mới tư duy nghệ thuật… Là người thầy quý mến và tấm gương lao động mẫu mực của hàng chục lớp học trò kế nghiệp, Giáo sư sẽ sống mãi trong ký ức học đường, văn chương, học thuật. Với bài viết của nhà nghiên cứu Đào Duy Hiệp, BBT hy vọng sẽ làm hiển thị trở lại bóng dáng thân thương của Giáo sư ngày nào.

Giữa những đồ đạc tầm tầm, giường, tủ, giá sách, bàn, ghế... đã ngả màu thời gian, những ngăn kéo xộc xệch, những chiếc ghế không giống nhau, những bó sách trên ngăn, dưới đất từng chồng... có một ông già gày gò, rám nâu mà nét nhăn đã cày xới trên gương mặt vừa nín nhịn âm u, vừa xáo trộn buồn rầu những rãnh hằn sâu, đều đặn. Một “gương mặt bị phá hủy” trong Người tình của Duras. Cái đầu nhỏ cổ xưa, tóc cắt ngắn muôn đời, đôi vai mỏng, gương mặt bất động thường cúi sát xuống khi đọc cũng như khi viết. Cả cơ thể mỏi mòn đó đổ cong xuống bàn, khổ sai, cổ kính, tự tại. ánh nắng soi qua khuôn cửa sổ gợi hình ảnh một vị tông đồ tử vì đạo, lại như một vị La Hán thanh bần, an lạc đã ngộ được kiếp trần gian nhiều luân lạc. “Cuồn cuộn đau thương cháy dưới trời”. Sự bất động của tâm thế ông, lạ thay, lại không gợi nhiều trạng thái tĩnh hơn là những náo động triền miên. Những động tác, cử chỉ vô thức nơi ông dẫu nhỏ nhoi, vẫn gợi nên hai cực đối lập mà cực sau thường lấn át cực trước bởi chính ý thức giảm thiểu hoạt động của chủ thể: sự an phận, nhi nhiên và những lo âu, xao động lớn. Bàn tay to, chậm chạp, nổi gân, rót nước, pha trà, hút thuốc... đặt lên đầu gối, đỡ mái đầu... vừa ngập ngừng, trân trọng, lại vừa hoài nghi, dằn vặt trộn lẫn giữa lầm lạc và minh triết. Bàn tay chứa một sức mạnh bền bỉ, rầu rĩ đó không phải của một nội tâm bình thản, song đi đến cùng điều đã định bất chấp cạm bẫy. Nó thâm trầm, kín đáo, nhớ dai mọi điều ân oán của đời. “Kẻ lạc loài” trong ông hiện diện qua những câu nói giản dị bằng động từ thì hiện tại. “Tôi đang đọc... Hay quá H. nhỉ?”. Quyển sách hoặc bài báo đang đặt trên bàn đó quả thực thú vị. Hoặc ân cần, yêu thương, lo lắng khi ông tiễn tôi đi Campuchia dạy tiếng Việt, năm 1986, hồi đó gọi là đi nghĩa vụ. Ông cầm tay tôi trong buổi sáng nắng vàng tươi trước nhà số 9 Hai Bà Trưng: “H. đi nhé. Cẩn thận”. Tôi đã quay mặt đi và lén khóc. Cho đến lúc ôtô chạy, tôi vẫn nhìn theo bóng dáng Thầy khe khẽ đi về phía cuối phố. Hoặc một quá khứ rất gần: “Hôm qua tôi đã nói với anh (chị) X. rằng...”. Ông không có thời gian cho quá khứ, mà đang làm việc cho ngày mai: ông đọc và viết và thương yêu thế hệ trẻ. Những lúc có học trò, bạn bè, đồng nghiệp đến nhà bất kể về việc gì, ông như bỗng hóa thân thành người khác, con người cộng đồng trong ông thức dậy: ông đứng lên tíu tít hỏi han, pha trà, rót nước, gương mặt rạng rỡ, tươi vui... Mùa đông bất chợt tan đi trong những tia nắng ấm áp, long lanh. ánh lửa thuốc ngập ngừng, lúc lúc lại sáng lên giữa những tiếng cười vui. Ông chân tình thăm hỏi mọi người: việc gia đình, cơ quan, con cái, học hành... Ông bình dị và cẩn trọng trong từng chi tiết nhỏ của đời sống mà quên đi bản thân mình. Ông dâng hiến một cách nhẹ nhõm, giản dị, thành tâm trong niềm tin thơ trẻ. Mối bận tâm của ông ở chỗ khác: Ông không ngừng vật lộn giữa bản chất và hiện tượng của đời sống. Cũng như những người hiểu biết, cả nghĩ và vị tha khác, đời ông là một bi kịch lớn, kéo dài. Sống mũi ông lớn, vững chãi, thẳng ngay nhưng phú quý dồn hết vào nẻo chữ nghĩa, cái tâm và nết sống. Giáo sư Đỗ Đức Hiểu sinh ngày 16 tháng 9 năm 1924. Đến nay, ông đã chứng kiến 3/4 thế kỷ với những tiếng ầm rền vang của công nghiệp sắt thép cùng những biến động lớn của lịch sử dân tộc, nhân loại. Những đổ vỡ và những tái sinh. Nơi gương mặt nghiêm nghị, u buồn của ông, đôi khi nụ cười hiếm hoi, vắng âm thanh đã để vương đọng lại một làn ánh sáng thật cao khiết. Ông nghe biết cuộc đời bằng đôi tai rất đẹp, nhiều Phật tính: dầy, thành quách đầy đặn, phân minh, cân đối, thùy châu triều ra cho thấy khí vượng, thông sáng, cũng chứng tỏ tuổi thọ bền lâu.

Chưa bao giờ số phận lại đùa dai cho bằng khi nó đặt lên vai một ông già gày gò, xương xẩu, và mỏng như suốt chiều dài thân thể ông một sức lao động bền bỉ; một khối lượng văn hoá, văn học nhân loại sâu sắc; một tâm hồn thơ trẻ; một nỗi buồn ẩn sâu, nghẹn ngào chứa chất nước mắt mà ít người ngoài biết được; một tiếng nói nhỏ nhẹ bên một giọng văn bay bổng, câu dài, triền miên, trẻ trung và mạnh mẽ... đến thế. Ông kinh điển mà không cũ kĩ; nhàu nát mà vẫn tươi tắn, trẻ trung; nhỏ nhẹ mà lại kiên định chẳng mấy ai bì được... Tất cả những mệnh đề cực đoan và mâu thuẫn của đời ông đều là những ngọn sóng lớn vỗ không mỏi vào một mệnh đề chính: dòng sông Văn chương, cái đẹp, tình thương yêu, lòng nhân ái. Ông sẽ còn là một người Thầy lớn của nhiều thế hệ tương lai cũng như ông đã từng là người Thầy của nhiều lớp người gần nửa thế kỷ qua.

Hành trình cuộc đời văn hoá của ông như một dòng sông lớn: tạm biệt giảng đường và Hà Nội khói lửa ngút trời năm 1946, ông khoác balô lên vùng chiến khu Việt Bắc, theo những dòng sông Hồng, sông Lô, sông Công... mê mải. Trở về lại Hà Nội, ông đã tham gia những công tác khác nhau của Bộ Giáo dục, của khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp ngày ấy... Nhưng hết thảy các công tác đó đều gắn với việc giảng dạy văn chương, dịch thuật, viết sách, viết báo, Tạp chí;... cặm cụi với các thế hệ học trò trẻ mà ông hằng mong chóng trưởng thành qua sự dìu dắt đào tạo của ông. Không có việc nào khác ngoài hành trình: học, tự học, giảng dạy, dịch và viết sách. Một hành trình lao động vì cái đẹp của ngôn từ. Tâm hồn trẻ trung của ông luôn khao khát cái mới: Ông là một trong rất ít người đầu tiên ở Việt Nam đã đưa vào việc nghiên cứu văn chương một hướng mới, nhiều sáng tạo, đồng thời giới thiệu những hướng tiếp cận của thế giới. Việc làm ấy, ông bắt đầu từ tổ bộ môn qua những buổi sinh hoạt khoa học vào đầu những năm 80 và lũ trẻ chúng tôi đã may mắn được soi sáng bởi ngọn lửa đó. Cảm xúc lớn và khoa học sâu sắc là hai trọng lực làm nên những công trình nghiên cứu văn chương của ông. Với ông, nghiên cứu cũng là sáng tạo. Sáng tạo lại “mẫu gốc”. Thời gian chạm khắc vào ông, ông chạm khắc vào văn chương nghiên cứu một sáng tạo.

Những không gian rộng lớn nơi xứ người Pari và Bắc Kinh, sông Seine và sông Tiền Đường, Nhà thờ Đức Bà và những mái chùa cong cổ kính… đã hun đúc thêm trong ông một tình yêu dai dẳng, bền bỉ hai nền văn hoá Đông - Tây. Gần nửa thế kỷ qua, ông là người chèo đò nhẫn nại giăng mắc trên dòng sông có hai bờ văn hóa ấy. Như bao đời dòng sông và lòng người không phải bao giờ cũng hiền hoà, êm ả. Song ông được đồng nghiệp quý nể, được học trò kính trọng, được người đời tìm đến với tư cách là nhà khoa học lớn có uy tín, trách nhiệm. Hàng mấy trăm bài báo, tạp chí, hàng mấy chục đầu sách dịch và viết, đến nay hỏi, ông cũng lắc đầu không nhớ hết. Ông là người đứng đầu chủ biên bộ Từ điển văn học hai tập đã xuất bản năm 1984, nay đang trên đường tái bản và bổ sung; là chủ biên cùng với các đồng nghiệp của 10 tập Giáo trình lịch sử văn học Pháp suốt từ thời Trung cổ đến tận ngày nay. Sẽ còn rất lâu mới có thể có một bộ sách khác thay thế được chúng. Tập Đổi mới phê bình văn học của ông tái bản mà vẫn không tìm được sách mua. Ông là người luôn mong mỏi “hiện đại hoá” chính mình. Trong lao động, ông đổi mới mình. Và người khác đổi mới theo ông. Trong hai tập Từ điển văn học ông đã tham gia viết tới 67 mục từ các loại: các khuynh hướng, các trào lưu, các thuật ngữ, nhà văn, nhà triết học và tác phẩm của họ- Chủ nghĩa hiện sinh, Chủ nghĩa tự nhiên, Tiểu thuyết Mới, Chủ nghĩa hiện thực Mới, Baroque, Descartes, Corneille, Racine, Molière, Béranger, Baudelaire, Rimbaud, Verlaine, Proust, Apollinaire... hầu hết các đỉnh của văn học và tư tưởng Pháp qua ba thế kỷ. Đó là chưa kể các nhà văn, các tác phẩm Bungari, Đức, Bỉ, Mỹ mà ông cũng có viết ở đây. Mỗi mục từ là một núi công sức bỏ ra: sưu tầm tài liệu, đọc tác giả, tác phẩm, thời đại, lịch sử, xã hội... Chọn lọc, sắp xếp, biên soạn, vân vân. Đọc liên tục các mục từ của ông ta sẽ hình dung được khá rõ tình hình văn học, lịch sử, các nhà văn, các nhà triết học ở những thế kỷ đó. Công trình đó cần phải có một sự lao động bền bỉ, trung thực và một tình yêu lớn lao đối với văn chương, cái đẹp. Cuộc “phiêu lưu” ấy là bất tận, dòng sông văn chương vẫn mải miết trôi xuôi để chứng kiến một người chèo đò mê mải một ngày kia lại ghé sang bờ Đông với “Thế giới thơ Hồ Xuân Hương”; “Những con đường ra đi của Thuý Kiều”; rồi ông “Cùng Nguyễn Nhược Pháp trảy hội Chùa Hương”; lắng nghe “Tiếng thu, thơ nhạc của Lưu Trọng Lư”; cùng những Số đỏ, Sống mòn, Phố huyện, Bi kịch Vũ Như Tô... Ông tháo gỡ tỉ mỉ, nâng niu, sắp xếp, chỉnh trang lại “mẫu gốc”, khám phá ra những ý nghĩa mới sâu xa, tiềm ẩn, khiến cổ vật vốn mang giá trị tự thân lại càng đẹp đẽ, ngời sáng. Ông đi tìm nội dung của hình thức. Nếu như trong quá trình văn bản ông thường hay sử dụng những câu dài, triền miên, thôi thúc, hối hả, nhiều chất nhạc, như muôn ngàn ánh sáng màu sắc lung linh... thì về cuối, những câu kết như nốt trầm tắt lặng, lịm đi, như ánh sáng cuối cùng của đô thị đang dần nhoà đi trước ban mai sau một đêm dài trăn trở, để lại sau nó những dư ba không dứt, nó tiếp tục một đời sống mới triền miên trong tâm trí người đọc. Văn chương nghiên cứu Đỗ Đức Hiểu động đậy, âm vang về phía trăn trở, trái ngang. Ông nhìn vẻ đẹp văn chương bằng ánh sáng của tâm linh dịu dàng và đau khổ. Về lại bờ Đông, ông đã về lại tuổi thơ cắp sách ngày xưa của chính mình với những “Thủa trời đất nổi cơn gió bụi”, “Lâm Truy từ thủa uyên bay”, “Nước non nặng một lời thề”… Sau bao biến thiên của lịch sử, số phận chúng vẫn hằng văng vẳng bên tai mỗi độ thu sang. Những ấm lạnh của đời sống có lẽ chỉ khiến một hợp kim nâu, dẻo dai, bền bỉ của con người văn hoá như ông càng thêm ngân lên những âm thanh trong trẻo đã được chắt lọc qua thời gian. Hằng ngày, hằng giờ, ông vẫn lại qua mải miết trên dòng sông ấy, tránh nơi ồn ào, khái tính, không Lễ, Tết, ẩn cư, đạm bạc, ông tìm đến “nơi vắng vẻ” trong sách vở như suốt đời ông đã từng như thế để tránh “chốn lao xao” danh vị, tiền tài.

Buổi sáng nay tháng chín, có một người học trò nhỏ lại được Thầy tiếp bên bàn cùng trang sách mở... Nắng nhẹ Mùa thu cùng với ánh sáng từ nụ cười hiền, ấm áp, giọng nói nhỏ nhẹ chân tình của Thầy đã cho tôi thêm niềm tin yêu, học được cách sống, biết quý trọng lao động và biết yêu thương đồng loại...

(Viết nhân kỷ niệm 75 năm sinh nhật Thầy)
Đào Duy Hiệp
Bản tin ĐHQGHN số 146, ra tháng 4/2003 [100 Years-VietNam National University,HaNoi]
Các bài liên quan
» PGS.TS Bùi Hiền - Người không ngừng sáng tạo với tiếng Nga
» Về một nhà vật lý đáng kính
» Nhà giáo Đỗ Ngoạn và văn học Đức ở Việt Nam
» GS. Lâm Ngọc Thiềm, người cựu chiến binh - thầy giáo trên giảng đường hôm nay
 Tin tức qua ảnh
 Tiêu điểm
 Các liên kết
 Thư viện ảnh

Copyright 2004-2024 Đại học Quốc gia Hà Nội
Thông tin toà soạn
Địa chỉ : 144 - Đường Xuân Thủy - Cầu Giấy - Hà Nội.    Email : bantin@vnu.edu.vn